CƯỜNG HÀO ÁC BÁ PHẬT GIÁO TÂY ÚC: LÊ TẤN KIẾT, LẠM DỤNG LÒNG TỪ THIỆN ĐỂ BẮT CHẸT PHỤ NỮ PHỤC VỤ" SINH LÝ"

CƯỜNG HÀO ÁC BÁ PHẬT GIÁO TÂY ÚC: LÊ TẤN KIẾT, LẠM DỤNG LÒNG TỪ THIỆN ĐỂ BẮT CHẸT PHỤ NỮ PHỤC VỤ” SINH LÝ”. – TRƯƠNG MINH HÒA –

” Chánh Giác hay là chánh giặc đây?
Chùa nầy ăn mặn lẫn ăn chay.
Trụ Trù MỘT lão, đầu không cạo.
Ăn nói huênh hoang, chuyện gió mây.
Nội cung nghi ngút nhang và thuốc.
Thoang thoảng mùi hương, lợn dã cầy.
Bá tánh xa gần nên lưu ý.
Thiền môn đa dạng hóa kinh tài.”

( Bài thơ của một tác giả vô danh, phổ biến trong cộng đồng người Việt Tự Do Tây Úc).

Ở tiểu bang viễn Tây nước Úc Đại Lợi, với dân số người Việt chừng 14 ngàn; ai cũng biết chùa Chánh Giác, tọa lại ở số 45, Money St, Northbridge, tại trung tâm phố, là tài sản đáng giá nhiều triệu Úc Kim, là sự thành đạt của Phật Giáo của những kẻ” mượn đạo tạo tiền” với chủ trương trước sau như một” dù chuông có thể bể, mõ có thể rè, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” trong việc phát triển cơ sở chùa, tượng Phật, rình rang lễ hội, vía, bán cơm chay, có chùa còn có sáng kiến tổ chức” thi hoa hậu áo dài” và dịp tết âm lịch, để cho sư ngắm, hầu” thanh tâm trường khoái lạc” mà tu mau, gicá ngộ sớm, hầu đạt tới” đạo tu” hoặc” tu đạo”…..nhưng cái ” tâm thì cần hỏi lại và cần chứng minh”, do ngày nay đạo pháp ngả nghiêng theo dòng đời, khi ma quái, quỷ đỏ vô thần lộng hành, xâm nhập vào thiền môn, hư hư thật thật nào dễ phân biệt, nên lắm kẻ” lạy ma quái đến mỏi cả chân tay, sói đầu, mà tưởng là Phật”, mang tiền đóng góp cho kẻ xấu núp bóng Phật đài mà tin tưởng” vun bồi công đức”, được những kẻ tu giả tuyên truyền qua việc lạm dụng thuyết luân hồi nhân quả để lừa đảo, nên nhiều Phật tử mù quáng coi việc cúng dường, công quả, phục vụ cho tang ni là:” đầu tư công đức cho kiếp sau”, thế nên nhiều TIỆM PHẬT vẫn tồn tại, phát triển trong cảnh” chùa to, tượng Phật lớn”.

Vị trụ trì ngôi chùa CHÁNH GIÁC nầy, không phải là sư, mà là một người bình thường, tên là Lê Tấn Kiết, lấy pháp danh ĐẠI HỶ, được dân ở đây nói lái cho vui, theo văn hóa bình dân học vụ là ĐĨ HẠI. Cũng giống như Hồ Chí Minh, lúc mới 57 tuổi, tự xưng là:”cha già dân tộc” và đạt danh hiệu BÁC HỒ, thì ông Lê Tấn Kiết, cũng với tuổi đời gần như vậy, vào thời đó, cũng đạt danh hiệu BÁC MỘT, nên hầu như từ già đến trẻ đều gọi là Bác Một tự nhiên” như người Hà Lội”, nên bác Một trở thành bậc trưởng thượng. Theo một số người hiểu rỏ” sơ yếu lý lịch” thì gọi là” ông Mười Một”, quê ở Vĩnh Bình, một người có trình độ văn hóa cao cấp, nếu không tốt nghiệp” cao đảng sơ học” cũng là” đại học sơ cấp trường làng”.

Vào năm 1984, tờ báo Chuông Saigon, cơ quan ngôn luận đầu tiên ở Úc Châu, do Chu Văn Hợp chủ trương, có đăng một bài viết của một người tên Tuấn, là thư ký riêng của một tay có máu mặt sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tố cáo một người ở Tây Úc, làm chức” Trưởng Ban Lương Thực Thành Phố Hồ Chí Minh”. Riêng tại Tây Úc, theo nguồn tin của một số cư dân đầu tiên, thì vào năm 1982, bác có bí mật mở cuộc”thảo luận” với một số cán ngố kinh tài Việt Cộng, trên lầu tại nhà hàng Kim Anh, nên một số người tỵ nạn thuộc nhóm của H..Râu tới bao vây, nhưng phái đoàn nhanh chân tẩu thoát, rồi gặp bác tại cầu thang, bác tung tin giả là:” tụi Việt Cộng đến nhà thằng luật sư Quỳnh ở Girrawheen”…số anh em nầy tưởng thiệt bèn mò tới nhà rình, đến sáng thì không thấy gì, sau dó mới biết bác tung hỏa mù để lừa, bị trúng quỷ kế. Là CƯ SĨ nhưng bác Một” thành công hơn KỶ SƯ rất nhiều, không lao động mà lại” vinh quang” cứ ngồi không, ê a kinh kệ, dựng chùa, tượng Phật là:

” Tiền vô như nước sông Đà.
Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin”.

Chùa Chánh Giác là tự viện đầu tiên ở vùng Tây Úc, vì” Bác Một” là những người” vượt biển” sớm nhất, khi mới thành lập chùa, Bác tuyên bố với nhiều người, câu nầy trở thành” châm ngôn” cho những kẻ THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI, thành công rực rở trong việc biến CHÙA PHẬT thành TIỆM PHẬT:” Một các chùa bằng ba cái shop”, cũng như câu ca dao của đám hậu duệ” Lưu Hương Đạo Soái” trong chuyện kiếm hiệp Trung Hoa:

” Con ơi học lấy nghề cha.
Một năm ăn trộm, bằng ba năm làm”.

Đối với những người có tâm” buôn Phật, bán Bồ Tát” thì:

” Kinh doanh lời nhất cất chùa.
Tiền vô như nước, lại vừa danh thơm”

Nhờ nhiều Tam Tạng thời đại đóng góp, cúng dường, công quả, sau nầy thì TÁ HỎA tam tinh, nên ngôi Chánh Giác đi đúng như câu” cửa chùa từ không đến có” hay là theo những vị CHÁN TU chủ trương:” Phật giáo vùng lên để cất chùa”, như câu:” cách mạng vùng lên để đổi đời”. Từ ngôi nhà mướn, sau thời gian” trụ trì” thu tiền, nay chùa do” bá tánh đóng góp, bác Một quản lý và lãnh đạo” thật là:” Từ tượng Phật ta trưng ra, chùa xây lớn gấp mười lần qua”.

Những” sáng lập viên” của chùa Chánh Giác là vài người đến cùng thời, mà theo những chuyện vui ở trại tỵ nạn, khi khai với cao ủy, với nghề nghiệp” DANH CA”, do đánh máy không bỏ dấu, nên lầm tưởng là” CA SĨ”; tuy nhiên, những người” ngư ông và biển cả” đến Úc rất sớm bằng tàu đánh thẳng vào lục địa nầy, có” tâm đạo” nên” tạo đâm”, như gia đình ông Trần Mét ( người binh dân học vụ gọi là ông CHẰN MÉT) với đám con cháu gồm: Năm Cọp, Tư Beo, Nam Nhật, Hai Ù…..làm hậu thuẫn vô cùng” vững chắc như thành đồng LA HÁN”, như” thần Hộ Pháp tại thế”, vận động tài chánh, lấy danh nghĩa Phật, chớ những người nầy làm sao có thể nói cho người khác nghe, chỉ có mượn danh Phật thôi, nên lúc đó, khi đến chùa, thấy những khung trồng bông được đóng bằng” chay bia”, trông rất ư là” thanh tâm trường ăn nhậu”, là nét đặc thù của ngôi chùa Phật đầu tiên tại đây, rất ư là phù hợp với phong trào” bảo vệ môi sinh” tức là có sáng kiến dùng chai bia để” recycle” thành khuôn trồng hoa, là” ăn nhậu đa văn hóa” trong giới lưu linh.

Theo nguồn tin đồn, thì thỉnh thoảng, các” LỔ TRÍ THÂM” thời đại hay là con cháu sư TẾ ĐIÊN, nơi nầy có bắt vài con chó đi lạc, bị biến thành những món” dã cầy”, mà trong nước được gọi là” cẩu tặc”. Công việc làm ăn khắm khá, thì từ năm 1983, đại đức Thích Phước Nhơn ( tục danh Tô Định Phương) sang, hai bên tranh chấp chức hội trưởng Phật Giáo, thườnh dùng các buổi” thuyết pháp” để chửi, bôi nhọ nhau bằng nhiều hình thức từ tuyên truyền xám đến công khai sử dụng” khẩu quyền” lẫn lộn trong kinh Phật một cách” sáng tạo tài tình” hòa hợp hòa giải giữa văn đạo và văn đời. Rồi” luật cùng tất biến”, một số chức sắc cao cấp gọi là” Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Úc Đại Lợi” đã thân chinh từ miền Đông sang miền Tây, trong đó có huề thượng Thích Như Huệ, đến hổ trợ cho đại đức Thích Phước Nhơn, đem” bàn thờ Phật xuống đường” như cảnh cũ 1966 ở Việt Nam, lúc thượng tọa Thích Trí Quang làm loạn, có khi đem bàn thờ Phật” an vị” trên đống rác; lần nầy ở hải ngoại, bàn thờ Phật được” ăn vị” bên lề đường, ngả ba, trước mặt là” ĐỘNG NÀNG TIÊN TÓC VÀNG”, thật là” bồng lai tiên cảnh, ai có bạc hảy vô đây, để tìm đường lên Niết Bàn” như sư Thích Nguyên Trực, cao tăng giáo hội tiếm danh Úc Châu, chỉ với 40 Úc Kim mà gần đạt Chân Như, mới thấp thoáng nhìn thấy cổng Niết Bàn, vừa toan bước vào, là bị” thiên lôi cảnh sát Úc” vớt và nơi” đài nguyệt cảnh tòa án” bị gõ búa với 12 tháng tù treo. Sau khi làm” thủ tục hành chánh” theo kinh kệ, thì những vị cao tăng nầy bèn dời Phật tới khu North Perth, ở đường Albert, mướn một nơi làm chùa, đó là chùa Phổ Quang sau nầy, sau cùng dời về vùng Wanneroo, trở thành ngôi Phổ Quang Thiền Viện” hoành tráng”, nên ở Tây Úc có hai câu thơ phổ biến:

” Chùa Chánh Giác, vì ai tan nát.?
Chùa Phổ Quang, lắm kẻ dọc ngang”

Rồi từ đó, hai bên” tranh nhau” từ tín đồ, lễ hội và đương nhiên là chúa Chánh Giác do trụ trì là” CƯ SĨ” giàu hơn KỶ SƯ rất nhiều. So với ngành nghề như Kỷ Sư, thì” cư sĩ” như bác, không lao động mà lại vinh quang, ở không mà” huy hoàng” nên từ ngày bác qua Úc định cư, lập chùa, tích sản lớn dần” như có bác trong thiền môn, Phật Pháp”, nay có cả bạc triệu với ngôi tự viện, là cũng nhờ vào” công đức” của bá tánh đến” thi đua” đóng góp từ cúng dường đến công quả.

” Ai tu sĩ, tay không nên tự viện.
Ai giả tu mà chẳng kiếm bạc bao giờ?
Dậy mà đi, dậy mà đi…
Cúng dường hởi Phật tử ơi!”

Hay là:

” Nước lã mà quất nên hồ.
Tay không tu viện thật GỒ mới hay”

Nhờ có một số Phật tử Tam Tạng thời đại hết lòng” hỷ xã” với tâm” bồ tát”, nên uy tín” bác Một” tăng dần, bác trở thành” lãnh đạo tinh thần” mà không cần phải học hỏi, dấn thân, là chức” lãnh đại tự biên tự diễn, không người lái” nhưng cũng” không có nhiệm kỳ”, nên trong các cuộc lễ, được giới thiệu như là nhân vật quan trọng” thân hào nhân sĩ”, rồi được các hội đoàn tín nhiệm, trở thành” ủy ban vận động bầu cử” cho cộng đồng người Việt Tự Do Tây Úc hàng chục năm, nên lời bác nói đều có giá trị và được một số Phật Tử” trọng Phật Kinh Tăng” vây quanh, tâng bốc với niềm tự hào của bác:” thế gian là Phật sắp thành” dù bác ăn chay, mặn lẫn lộn tùy ý. Bác Một nói năng thật ligic, chẳng khác nào thứ” đỉnh cao trí tuệ” sau năm 1975, ra thành tiếp thu miền Nam, điển hình như bác nói” điện thoại” thành” ĐIỆN THẠI”, đoàn kết thành ĐÀN KẾT, mâu thuẫn thành MÂU THỬN, báo Việt Luận thành VIỆT LỰN….. nhưng trong các cuộc họp cộng đồng, bác tuyên bố:” Bác nói với thằng thủ hiến, thằng bộ trưởng…tụi nó nghe bác lắm!”, Bác gọi những chính trị gia Úc, dù làm lớn như tới đâu, cùng là NÓ, cũng giống như tiếng Anh” YOU, ME” hay tiếng Pháp” Toi, Moi”…đúng là” hội nhập lẹ vào đời sống đa văn hóa”.

Những bài” tham luận” của Bác thường được” ứng khẩu” với những từ ngữ trong văn chương” con cá gô, bỏ trong cái gổ, nhảy nghe gồ gồ..) tại các cuộc lễ cộng đồng như tết âm lịch tại hội chợ, tết trung thu….ngay các hội đoàn như Làng Văn Hóa Việt Tây Úc, là nơi văn hóa đấy, nhưng khi bác tham dự, có đóng góp tài chánh, thường cũng được làng có lên” phát biểu” như một” đỉnh cao trí tuệ” sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nếu bác ngồi theo” kiểu nước lụt” là người Việt ở Tây Úc tưởng đâu mình đang sống vào thời kỳ” đổi tiền” tại Việt Nam vậy. Tình trạng” lãnh đạo ngang hông”, nói năng như vậy, mà lại tồn tại hàng hơn 20 năm tại Tây Úc mới là chuyện” bất bình thường”; lý do là nhờ một số Phật tử hậu thuẫn, bác cũng” láu cá” vặt, biết dùng tiền bá tánh đóng góp để” recycle” cho các hội đoàn, nên trở thành” mạnh thường quân” hào sảng, nên được lòng những tổ chức, những chủ tịch hội, đại diện nhóm…bác đúng là”Nhạc Bất Quần thời đại”. Tài chánh là quan trọng, nhưng không phải vì cần tiền hoạt động mà lại bợ, bưng những người không ra gì làm” thần tượng”. Nói mỉa mai là: tập thể người Việt tự do Tây Úc đã sinh hoạt y như” xã hội chủ nghĩa trong nước” ngay tai nước dân chủ, nếu có ai phê phán, không đồng ý, thì bác được những người từng được bác bố thí, hiến tặng binh vực hết mình, chính họ là những người dung dưỡng những điều” trái tai gai mắt” hàng hơn hai thập niên kể từ” khi có bác với nên ngôi chùa Chánh Giác”; do đó, những ai đã từng” bưng, bợ bác” từ lâu nay, có nhục không?.

Còn tiếng Việt trong sáng, bác thường dùng tiếng ĐAN MẠCH để” truyền giảng đạo pháp” ngay trong lúc nói chuyện; điều nầy cũng từng xảy ra ở Việt Nam, tại tỉnh Cà Mau, năm 1973 có đại đức Thích Nhật Quang ( nay trụ trì chùa Ấn Quang), là sư mở miệng ra là” niệm hai chữ” Đ.M” chớ không” Nam Mô A Di Đà Phật”. Được biết bác nói và viết tiếng Việt không rành, nhưng lại nói với người Úc, chính phủ Úc, toàn là mấy ông lớn nghe, cũng là nhờ chung quanh có nhiều kẻ mù quáng, ham lợi và những” quân sư quạt máy” vấn kế. Măt khác cũng rất quan trọng nhưng đau lòng là: Nhờ một số” phật tử” có học tạo dùm uy tín cho bác, qua sự giới thiệu bác với chính quyền, nên bộ mặt của Bác được chính phủ Tây Úc coi là” đại diện cho người Việt” thế mới nguy to. Cũng nhờ những” trí thức Phật giáo” dưới trướng hết lòng cút cung tận tận, đánh bóng, nên bác được chính phủ tài trợ một số tiền tu bổ chùa ( nghe đâu cũng vào ba trăm ngàn Úc Kim) trong chương trình đa văn sự vụ, năm 2007, bác còn được ai đó” đánh bóng” và được gắng huy chương của chính phủ Úc, bác mừng lắm, có tổ chức tiệc tại sòng bạc Casino ( Burswood) để ăn mừng thành công rực rở nầy ( nghe đâu tiệc nầy cũng có người mang tiền đến cùng dường cho bác để chia vui và vinh danh một nhân vật có công rất lớn đóng góp cho cộng đồng, làm từ thiện?)

Từ một tay ngang, ít học, không rành chữ Việt, nên kinh kệ chắc cũng là” mù tịt” như cõi vô minh, thế mà nhờ bác biết khai thác câu” Trọng Phật kính tăng”, đứng ra thành lập chùa, từ mướn sau mua, nhờ bá tánh” u mù” đóng góp cúng dường, công quả để” vung bồi tài sản của bác Một” chớ nào phải:”vun bồi công đức”. Nhờ tiền cúng dường, bác áp dụng chiêu:” mượn đầu heo nấu cháo”, dùng tiền đó với nhiều mục đích: phát triển chùa, đem một số tiền cho các hội đoàn, dùng làm từ thiện….tiền bá tánh nhưng được bác xài và công đức là thuộc về bác. Cho nên, với SÁCH LƯỢC nầy, bác đã XƯỢC-LÁCH lâu năm, trở thành nhân vật uy tín, bào trùm quyền lực cộng đồng, vì có một số thọ ơn bác mà ủng hộ. Nhìn cách hoạt động của Bác, người hiểu chuyện, có chút sáng suốt, suy tư bình thường cảm thấy là: Bác chỉ dùng tượng Phật, đặt bên cạnh là thùng Phước Sương, thu tiền vào và chi ra theo cảm tính để hưởng lợi, có khi dùng tiền đó để khuynh đảo các hội đoàn. Thời gian sau nầy, bác còn khai thác thêm” dịch vụ ma chay” là tụng kinh cho đám ma, qui tụ một số” chuyên gia đọc kinh” có thù lao. Không biết bác có rành kinh sách mà đọc kinh, nhiều khi lấy không trúng kinh, đọc, khiến linh hồn người quá cố lanh quanh” nơi miền cực lạc” mà không được giấy phép” đăng ký” với Nam Tào Bắc Đẩu; cũng như nộp đơn xin xây nhà mà lại đi nhằm cơ quan cảnh sát vậy.

Trong những hoạt động” xây dựng cộng đồng, giúp đỡ người Việt đồng hương” mà Bác hay khoe khoan về” thành tích” và được một số Phật tử hùa theo, dù ít biết chữ, có học cao như tiến sĩ Bình An Sơn ( du học Colombo trước 1975) bác kêu một tiếng là dạ rân và chạy quýnh đít ( Bình An Sơn thỉnh thoảng có viết bài trên Giao Điểm), được một số” lãnh tụ” Mặt Trận, phục quốc….bưng bợ khá kỷ và” bảo vệ uy thế bác như con ngươi trong tròng mắt”, nên bác trở thành một thứ” lãnh đạo tinh thần” có quyền lực bao trùm trong cộng đồng địa phương, lại thêm cái cơ quan truyền thông là hệ thống SBS radio do Lưu Tường Quang thành lập với trưởng đài Quốc Việt ở Melbourne và Ngọc Hân ở Sydney, thỉnh thoảng đưa lên làn sóng” tàn quốc”, nên tên tuổi bác nổi như cồn qua công tác từ thiện, lãnh đạo” chùa”, phục vụ cộng đồng….Có lần, bác hứng thú nói với một số người đến chùa, để tự ca công đức vang dội từ nước ngoài đến trong nước, bác nói:” Khi bác chết, hổng chừng ở trong nước làm LỄ TRUY ĐIỆU” ( người viết bài nầy, có mặt với ông cựu cảnh sát viên quận Cầu Kè, sui gia với ông An La, nghe bác nói mà giựt mình). Nhiều người Việt tỵ nạn ở Úc Châu cảm tưởng như đang sống trong” thiên đàng xã hội chủ nghĩa” khi tham gia, tham dự các sinh hoạt cộng đồng như các cuộc lễ hội Tết, Trung Thu…bác thường trở thành” khách danh dự” lãnh đạo tinh thần chùa Chánh Giác, đương nhiên là ngồi hàng ghế đầu cũng với quan khách Úc, đại diện các đoàn thể, bác được” xướng ngôn viên” trân trọng xướng danh và thỉnh thoảng còn mời bác lên” phát biểu” rất ư là” văn chương văn minh miệt vườn, văn hóa ao hồ sông rạch, rau muống đồng..” với những từ như” thưa TÀN THỂ quí vị, sinh QUẠT cộng đồng, DI NHẤT ( duy nhất..), ĐÀN KẾT (đoàn kết)… Qua lối nói chuyện của bác, người ta có cảm tưởng như đang sống lại thời kỳ” cách mạng” trong nước sau 1975, với câu ca dao:

” Năm đồng đổi lấy năm xu.
Thằng khôn học tập, thằng ngu day đời”.

Tình trạng nầy kéo dài hàng hơn hai thập niên, kể từ” khi có bác trong tham gia cộng đồng”, vậy mà nhiều tay” lãnh đạo hội đoàn, kháng chiến, phục quốc, có học cao, bằng kỷ sư, tiến sĩ, luật sư, kể cả một vài cựu quân nhân quân lực VNCH” cứ bợ bác, ù ù khạc khạc, ngay cả khách phương xa như ông nghị Nguyễn Sang từ Melbourne, luật sư Lưu Tường Quang, cô Nguyễn Thị Quỳnh Mai ở Hoa kỳ…. đến” tham quan” bác, nên các cộng đồng Tây Úc vẫn dậm chân tại chỗ và ngày nay suy yếu. Sau đây là vài hoạt động nổi bật của bác trong việc xây dựng và phục vụ cộng đồng:

-Nổi bật trong biến động ở Tây Úc là vụ tên huề thượng quốc doanh Thích Thanh Từ: được nhóm tổ chức gồm ba ông: Bình ( Bình An Sơn, tiến sĩ du học Colombo), Ông A ( một Phật tử thuần thành, người trúng số độc đắc 4, 5 triệu Úc Kim), Chấp ( một cư sĩ Phật Giáo). Theo thông cáo thì huề thượng Thanh Từ thuyết pháp tại 3 chùa là Chánh Giác, Quan Âm Ni Tự và chùa Pháp Giới của Úc ( do Bình An Sơn trung gian?), trong thời gian từ ngày 3 đến 7 tháng 12 năm 1996. Nhằm chuẩn bị cho chuyến” vừa thuyết pháp ru ngủ, gây phân hóa, thu tiền và hạ cờ vàng ba sọc đỏ”, nên ngày 2 tháng 12 năm 1996, phái đoàn đại diện cho Thanh Từ gồm: ông A, Diện và một người tên Thảo ở Melbourne sang, lúc 11 giờ sáng đến chùa Chánh Giác gặp bác để điều đình, đòi hạ cờ vàng trên bàn thờ; lúc đó có mặt ông Phùng ( biệt kích dù 81), ông Giao ( tín đồ Hoa Hảo) nên bác hổng dám hạ cờ. Do đó kế hoạch thuyết phát rút ngắn và Thanh Từ đành trở về Việt Nam để học tập lại, tuy nhiên, liên tiếp trong các hội chô tết từ 1997, 1998, 1999, nơi gian hàng của chùa Chánh Giác, có phổ biến kinh sách, băng thuyết pháp của Thích Thanh Từ.

Điều nầy làm cho mọi người giựt mình, vì biết bác” nói một đàng, làm một nẻo”. Sau vụ hạ cờ đó, nguyệt san Ngôn Luận ( bác gọi là NGÔN LỰN) cơ quan truyền thông của cộng đồng người Việt Tự Do Tây Úc, nhiệm kỳ bà Thể Vân là nữ chủ tịch đầu tiên ở đây, người viết bài nầy là người thành lập tờ báo, là trưởng ban báo chí cộng đồng, có đăng tin hạ cờ, sau khi báo phát hành, thì bác Một gọi” điện thại” tới nhà chủ bút và bảo rằng:” cháu đánh chết mẹ nó đi, cháu đăng luôn trên tờ Việt Lựn…”. Người viết không có ý kiến, vì đây là nhiệm vụ bảo vệ cờ vàng, lập trường chính trị, vạch mặt chỉ tên những kẻ tiếp tay cho giặc Cộng. Độ một tháng sau, bác Một” điện thại” tới nói:” cháu gở dùm thằng A..”. Tôi đáp:” báo nầy đã đăng, thì không thể nói lại, làm mất uy tín tờ báo cộng đồng”, nhưng bác cứ nói hoài, cuối cùng, hỏi lý do, thì bác nói thẳng:” THẰNG A LÀ CON NAI MẬP”. Thì ra là lúc trước, ông A trúng số chưa chi tiền” cúng dường và vun bồi công đức” cho bác, nên bác không” đại hỷ” bèn tìm cách hạ cho bằng được; nhưng sau khi đưa tiền cho bác, thì bác muốn gở cho” Phật tử biết điều”.

-Vào tháng 6 năm 1998, nhiệm kỳ bà Thể Vân sắp hết, nên bác là” chủ tịch ủy ban vận động bầu cử” trường kỳ, có nhiệm vụ mời người ra ứng cử và cái chức nầy rất quan trong trong việc sắp xếp nhân sự trong ban chấp hành. Được biết, thời bà Thể Vân, bác cũng” gài” người vào, đó là ông Nguyễn Trí T…làm phó chủ tịch nội vụ ( là chức kiểm soát cộng đồng), chính ông nầy từng đòi” kiểm duyệt tờ nguyệt san Ngôn Luận” nhưng người viết nầy nào để cho những thằng” bá láp” có vợ cưới từ Việt Nam, rất trẻ, làm việc tại chức tại thành Hồ. Nhiều lần, ông T…hống hách trong các cuộc họp cộng đồng và sau nầy phải từ chức. Tờ báo Ngôn Luận phát hành đều đặc tới 21 số trong 2 năm, là nổ lực của các anh em trong ban biên tập, chúng tôi với hai bàn tay trắng, đi vận động tiền và bỏ sức làm, phải vào văn phòng cộng đồng mượn máy computer trong ngày weekend, vì không thể sử dụng trong ngày làm việc; tờ báo bị đánh phá nhiều phía: tờ Phổ Thông của Hoài Nam, tên là Bùi Tấn Chức, khóa 27 võ Bị Đà Lạt ( yểm trợ văn công VC), Từ chùa Chánh Giác ( vì không kiểm soát được) và nhất là cơ sở Mặt Trận, Liên Minh Việt Nam Tự Do (lãnh đạo từ Pháp với Nguyễn Ngọc Đức), nhiều lần áp lực cho đăng những bài viết như” tờ cớ mất trộm của nguyễn Văn Trấn”, đánh bóng Trần Độ, Nguyễn Hộ, Đoàn Viết Hoạt….nhưng ban biên tập cương quyết không làm theo, vì đây là cơ quan ngôn luận của cộng đồng, không để bị ảnh hưởng các đảng phái, nhất là đám Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Một người trong ban biên tập là anh Hùynh Thanh T…với chức tổng thư ký cộng đồng, là người mời tôi ra làm báo, đã bị áp lực nặng nề, anh T…than thở với tôi nhiều lần:” cơ sở Mặt Trận ép tôi: một là chọn tờ báo, hai là chọn tổ chức”; được biết lúc đó, anh T…là bí thư cơ sở Mặt Trận Tây Úc. Anh T…giữ lời hứa, nên tiếp tục làm báo đến hết nhiệm kỳ và sau đó bỏ Mặt Trận luôn.

Trở lại nhiệm kỳ bà Thể Vân, sau khi bà chịu đứng ra làm việc” ăn cơm nhà vác ngà voi”, thành lập xong ban chấp hành nhiệm kỳ 1998-2000, thì trước khi bầu cử, bác Một” điện thại” mời bà đến chùa và sau khi bàn thảo công việc, bác nói với bà rằng:” Cô làm chủ tịch, cô đuổi thằng Hòa ra khỏi cộng đồng”….bà Thể Vân bực mình nên không thèm ra làm việc nữa. Lý do là: tờ báo do tôi chủ trương nhằm phục vụ cộng đồng, chớ không” thuần phục” bất cứ tổ chức nào, báo chủ trương:” Đón gió, nằm vùng, đánh tới cùng”, bác Một không thể biến tờ báo thành công cụ của Chùa và báo chống Cộng mạnh (đây là lý do thầm kín, làm cho cả Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và chùa Chánh Giác lo sợ). Bà Thể Vân qua đời ngày 13 tháng 10 năm 2006, người viết bài nầy rất khâm phục bà, xin được kể trước hương linh của một phụ nữ có tấm lòng quốc gia, nhưng bị một kẻ phá làm tan cả kế hoạch.

Theo những dự án mà tôi và bà Thể Vân bàn, là phát triển tờ báo chống Cộng, cơ quan truyền thông, lấy quảng cáo, dùng tiền làm ngân sách cho cộng đồng. Riêng tờ báo, tôi làm đơn xin quỷ Lotto, họ cho 5 ngàn Úc Kim để trang bị máy computer, sau khi thấy có tờ báo phát hành đều đặc một năm; tôi có kế hoạch sẽ xin thêm tiền để trang bị in ấn qua nhiệm kỳ kế tiếp và nếu kế hoạch nầy không bị” kỳ đà cản mũi” thì tờ báo sẽ làm lợi rất nhiều cho cộng đồng, bảo vệ lập trường. Chính những Phật tử” Tam Tạng thời đại” ở Tây Úc đã giúp cho” Bác Một” uy thế, trở thành lãnh đạo tin thần, nên bác tung hoành tại Tây Úc hàng hai chục năm qua. Sau khi mãn nhiệm kỳ, vì công việc chưa xong, nên tôi mang tờ báo ra ngoài làm, đổi tên là Nguyệt San Chính Luận, xuất tiền túi ra làm đến 2003 mới ngưng vì báo kẹt tài chánh ( in 1,6 Úc Kim, bán chỉ 1 đô) nên đọc giả tăng là báo phải dẹp vì không kham nổi chi phí. Tuy nhiên, nơi đây, có vài nguồn tin xuyên tạc, hình như có cả vài quân nhân quân lực VNCH đố kỵ vì tờ báo dám đăng, họ rỉ tai nhau:” báo của thằng Hòa không quảng cáo mà sống đều đều, như vậy là tiền của Việt Cộng đưa”, cho nên sau nầy, tôi không ngạc nhiêu về lá thư” biểu dương” chụp mũ tôi là Việt Cộng được gởi đến hầu hết các tổ chức, hội đoàn…. đau lòng là tờ đó có gởi cho hội quân nhân, nhưng” các chiến hữu” của tôi” im lặng là vàng” không hề lên tiếng binh vực, có khi họ còn đồng tình với lá thư đó, nghe đâu có vài quân nhân ( thân hữu với chùa)” nhất trí” cho tôi là Việt Cộng nằm vùng. Chính lý do đó mà cá nhân tôi không còn hứng thú, tinh thần để sinh hoạt trong hội cựu quân nhân nữa.

-Sau khi bà Thể Vân không làm, thì bác bố trí cho người trẻ lên, dễ sai, đó là luật sư Nguyễn Quốc Duy, luật sư nầy gọi bác Một bằng câu:” Bác Lê Tấn Kiết, NIÊN TRƯỞNG TỐI CAO CỦA CỘNG ĐỒNG”, cầu nầy cũng như” bác hồ vĩ đại”. Một điều khôi hài là câu nói đó của chủ tịch cộng đồng, người trẻ tương lai, lại oang oang trên hệ thống phát thanh SBS toàn quốc, có phải là trò cười cho thiên hạ không?

-Sau thời gian NGHỊCH với đám Phước Huệ qua vụ tranh chấp chùa, chức vụ hội trưởng, thì ngày 14 đến 17 tháng 5 năm 1999, bỗng nhiên huề thượng Thích Phước Huệ ( sau nầy vụ tịnh thất với Diệu Đức, thực tập theo thiền Tiếp Hiện của thiền sư Nhất Vẹm) sang, trong lần” thuyết pháp” đầu tiên, bác Một tán dương rằng:” Huề Thượng Thích Phước Huệ với CÔNG ĐỨC VĨ ĐẠI”. Từ đó, chùa Chánh Giác nằm trong hệ thống” Tiệm Phật Phước Huệ Công Đức Tùm Lun” ở Úc Châu.

-Có thể nói là sau nầy, qua các nhiệm kỳ của luật sư Nguyễn Quốc Duy, chùa Chánh Giác bao trùm cả cộng đồng; theo nguồn tin thì Bác đưa người vào làm nhân viên cộng đồng, là cô Hằng Mai, làm không đúng theo bộ đa văn hóa, nên mất số tiền hàng năm gần 100 ngàn Úc Kim. Rồi năm 2002, sau nhiều năm xin tiền từ các nhiệm kỳ cộng đồng, đến thời chủ tịch Nguyễn Quốc Duy, mới có kết quả: quỷ Lotto cho số tiền 320 ngàn Úc Kim, thế là Bác nhào ra hứng hết công lao, được đài phát thanh Tây Úc với Ngọc Thủy và hệ thống SBS Radio toàn quốc” đánh bóng”, trên các làn sóng, bác oang oang câu:” ĐỒNG TIỀN KHÔN”…rồi thay vì tổ chức trao tiền tại văn phòng cộng đồng, chủ tịch lại mang vào chùa để làm lễ, thật là khó coi và ai cũng hiểu là cộng đồng Tây Úc là:” do người Việt bầu ra, ông luật sư trẻ quản lý, dưới sự lãnh đạo của Niên Trưởng tối cao Bác Một”. Qua vụ nầy, bác tuyên bố mạnh là:” bác phải thực hiện cho cộng đồng có sơ sở trước khi chết”….đúng là công đức vĩ đại và” cảm động… đậy”.

Mới đây, theo tin tức tờ tuần báo Việt Luận, số 2346, ngày 27 tháng 3 năm 2009, nơi trang đầu có đăng tin, tựa đề như sau:” Hoàn cảnh một đứa bé đáng thương, bị cha thiêu sống, hiện đang sống ở Úc”. Nội dung bài viết nầy nói về trường hợp đáng thương của bà Nguyễn Thị Huệ, 40 tuổi, nông dân tại ấp Giồng Nổi, xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, thật là” HỌA VÔ ĐƠN CHÍ” dù bà nầy là dân:” cuốc đất trồng khoai” từ Việt Nam sang:

-Ở Việt Nam thì gặp phải ông chồng tên là Phạm Thanh Niên, rượu chè bê bết, trong lần say chí tử, mất hết lý trí, vào tháng 8 năm 2005, anh ta bắt trói đứa con trai mới 12 tuổi tên là Phạm Trường An Khang và đổ xăng đốt cháy, khiến đứa con bị phỏng nặng, trở thành phế nhân, phần da mặt chảy xệ và dính luôn với da trên ngực, cả phần ngực và rốn đều loang lổ những vết phỏng, nên ăn uống rất khó khăn, phải nhờ bà mẹ giúp đở, dù em khang được đưa điều trị ở bịnh viện Chợ Rẩy, riêng người cha tàn nhẩn bị 9 năm tù . Vì không trị được nên bà Huệ phải nhờ đến các cơ quan từ thiện Tây Phương, may mắn bà được cơ quan Connecting Communities Việt Nam ( CCV) của cô lyn tại Perth, được sự đồng ý của nữ giáo sư Fionna Wood, tại Royal Hospital, khoa chửa trị da, mọi chi phí do bịnh viện nhưng ăn ở thì nhờ người Việt hảo tâm giúp cho. Tại Tây Úc, nhân vật lừng danh nhân đạo là ” Bác” Lê Tấn Kiết, chủ chùa Chánh Giác ra tay” cứu khổ cứu nạn” theo đúng như tinh thần từ bi.

-Tại nước tự do Úc: đáng lẽ bác Lê Tấn Kiết phải thương hại, dành nhiều sự giúp đở để bà Huệ được an tâm nuôi con, chờ chửa trị, nhưng ông chủ chùa bỗng hiện nguyên hình là một” cường hào ác bá Phật Giáo”, bắt bà Huệ làm việc quần quật như” đầy tớ”, nên khi nhân viên Úc đến chùa, luôn thấy bà” công quả” mà không hiểu lý do. Tệ hại hơn và cũng là mối nhục, khi ông Lê Tấn Kiết bắt bà phải” đấm bóp” và phục vụ sinh lý nếu muốn có nơi tá túc để lo cho con. Một người phụ nữ khốn khổ, bà mẹ thương con nên:

” Cũng đành nhắm mắt đưa chân.
Thử xem già dịch nó quần tới đâu?”.

Việc” cường hào ác bá Phật Giáo Lê Tấn Kiết” pháp danh là ĐẠI HỶ làm giống như cảnh thời Tây, cường hào ác bá già dịch ở nông thôn, ỷ giàu, ép tá điền phải gã con gái để trừ nợ; cũng như thời Cộng Sản gây chiến từ 1954 đến 1975, những cán bộ phe cánh, công an địa phương, dùng lương thực, tem phiếu, vài mét vải thô, cái đài ( radio)…. để buộc vợ trẻ của bộ đội đi B phải phục vụ sinh lý, nên nhiều cán binh may mắn trở về, choáng váng khi:

” Bị Bác Hồ lùa đi đánh Mỹ.
Em ở nhà, giữ kỷ nuôi con
Khi đi xẻ dọc Trường Sơn.
Khi về con của công an đầy nhà”.

Giai thoại về gã đại tướng” không người lái” Võ Nguyên Giáp, sau cái gọi là chiến thắng long trời lở đất Điện Biên, hắn muốn lấy cô con gái trẻ là Đặng Thái Thanh, vốn là học trò của mình, bằng cách nhờ Hồ Chí Minh áp lực với cha của cô là Đặng Thái Mai, sau nầy” mối tình ép duyên” sinh ra cậu con trai, đặt tên là Võ Điện Biên.

Vì bị cường háo ác bá làm nhục ngay tại nước tự do, bà Huệ ức lắm, nhưng vì hoàn cảnh mà phải sa vào tay” cư sĩ” Phật Giáo, vốn có tấm lòng” đại bác”, cũng là ĐỒNG HƯƠNG, cùng quê Vĩnh Bình, nhưng là thứ già dịch, đã 98 tuổi mà” thanh tâm trường nắng cực” và để mắt” tham quan từ” ĐƯỜNG HÔNG, khu, đít, …..để mau giác ngộ” trong cái TÂM GIÀ luôn chứa mầm móng TÀ DÂM núp đàng sau bộ vía tu hành, nhân đạo. Nạn nhân đáng thương nầy bị hành hạ một thời gian, cắn rặng chịu đựng, nếu theo sự hiểu lầm Phật Pháp qua câu” trả quả” vì kiếp trước bà nầy có gây” nghiệp báo” thì coi như bị cường hào ác bá, núp bóng từ tâm, làm phước hành hạ xác thân để” kiếp sau được sung sướng”. Bà Huệ được một số người phát giác ra và tìm cách giúp đở trong tinh thần Phật Giáo:” đại hùng, đại lực, đại từ bi” với” diệt gian trừ bạo” nên ngấm ngầm quây phim khi Cường hào ác bá Phật Giáo Lê Tấn Kiết ép buộc bà Huệ cùng hát bài” Bác cùng chúng cháu hành quân” với lúc bác hết xí quách thì cũng dám bắt nạn nhân thực hành bài:” Ngựa Phi Đường Xa”, hoặc bắt nạn nhân phải cùng với hắn” ngồi thiền Tiếp Hiện” theo đúng” 36 pháp môn” thiền của thiền sư Thích Nhất Vẹm, chủ LÀNG MÔN để đạt chân như.

Nhờ khoa học kỷ thuật cao, nếu không thì bác không bao giờ” chịu cha ăn cướp”, nên sau khi” phát hiện” ra màng” kịch lói” được thực hiện thành DVD, kỷ thuật” hiện đại” mà người xem đang tưởng là Bác Một được mời sang Hollywood để đóng phim, nói về bí kíp tình yêu, với:” đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần sâu”. Trước cái” tình huống cực kỳ bất lợi”, bác Lê Tấn Kiết hoàn toàn” nhất trí” chi trả cho bà Huệ 4 ngàn Úc kim để mua đứt ” tài liệu mật chùa Chánh Giác”, nhưng bà Huệ nào chịu, vì đây là sĩ nhục, không phải vì tiền mà làm, vi quá ức như cảnh” dân oan khiếu kiện” vậy. Do áp lực tâm lý nặng nề, nhục nhả, nên bà Huệ phải cầu cứu các nhân biên cứu trợ Úc để xin” tỵ nạn từ thiện” ở một nơi khác cho an thân, để vào ngày 19 tháng 6 năm 2009 hết hạn cư trú, trở về Việt Nam.

Qua việc nầy, nên mọi người cần cẩn thận trước những kẽ mở miệng ra toàn là nhân đạo, từ bi, làm lánh lánh dữ, gieo công đức…mà hảy lấy câu hát vọng cổ của Úc Trà Ôn trong bài” Tôn Tẩn Giả Điên” có đoạn như sau:” biết đâu những kẻ lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân từ”. Sự kiện cường hào ác bá Phật Giáo Lê Tấn Kiết, tức là Ông Một, pháp danh ĐẠI HỶ, nhờ đi nước ngoài sớm, dựa vào tượng Phật để trở thành” tư bản Phật Giáo” với” nghiệp chuyên: NGỒI MÁT VỚT CÚNG DƯỜNG”, nay ỷ có tiền, có uy tín, ép buộc phụ nữ từ Việt Nam sang, lợi dụng tình cảnh khó khăn để ép nạn nhân” phục vụ sinh lý” như bọn cán bộ Cộng Sản ép những cô gái trong vùng chúng tạm kiểm soát, phụ nữ miền bắc gia nhập vào hàng ngũ” HỘ LÝ” để vừa có đầy tớ nấu nướng, và có người giải trí mà còn bắt nạn nhân bị hành hạ” cám ơn đồng chí giải phóng”. Nhưng đau lòng là cường hào ác bá nầy lại lộng hành ở một nước tôn trọng nhân quyền như nước Úc, thì quả là coi luật pháp không ra gì.

Do đó, các luật sư gốc Việt ở Úc Châu hay ở các nước trên thế giới, hảy giúp đở dùm nạn nhân là bà Nguyễn Thị Huệ trong việc TRUY TỐ tên cường hào ác bá Phật Giáo” già dịch” bấy lâu nay núp bóng từ bi, khinh khi đạo pháp. Hảy tiếp tay với cảnh sát, với cái dĩa DVD là bằng chứng, cùng lời khai bà Huệ để sáng tỏ công lý. Nếu đọc được bài nầy mà các luật sư gốc Việt lấy câu” thanh tâm trường yên lặng” là coi như đồng lỏa với tội ác”.

Riêng đối với những người Việt tỵ nạn, hảy nhìn thấy cái gương ở Tây Úc để tìm ra những con sâu mọt, đa dạng, núp cả trong tôn giáo. Cường hào ác bá Lê Tấn Kiết mà lập được cơ sở trị giá bạc triệu và uy tín như ngày nay, là nhờ sự tiếp tay của các” Phật tử Tam Tạng” cùng các hội đoàn, khoa bảng….. đưa một người không biết chữ nhiều lên chức sắc” lãnh đạo tinh thần” đại diện cho một giáo hội ở tiểu bang và khuynh đảo các hội đoàn, cộng đồng, chùa Chánh Giác cũng được coi là” ổ” bảo lãnh từ Việt Nam sang, mà chủ chùa lợi dụng tư cách pháp nhân tôn giáo để lãnh những người” đáng nghi ngờ” sang, mà trong đó có thể có cả Việt Cộng và những người bảo lãnh để kiếm chác bằng cách lợi dụng khe hở luật di trí. Cho nên nhân vụ nầy, nếu các luật sư giúp cho bà Huệ, cũng nên cảnh báo với bộ di trú Úc để xem lại những hồ sơ bảo lãnh từ chùa Chánh Giác hàng hơn 2 thập niên qua, mà ông chủ chùa Lê Tấn Kiết là kẻ” giả dạng kẻ nhân từ”, nay thì lộ mặt là người mà huề thượng Thích Phước Huệ, cũng là” cá mè một lứa” qua vụ tịnh thất ở Hoa Kỳ với bà Diệu Đức sốt 15 năm, qua quyết định số 04/83 VHC/VP/QĐ, ký từ năm 1983 có ghi rằng:” Những hành động của ông Lê Tấn Kiết, chứng tỏ đương sự là một con người không có tư cách của một Phật Tử, không giữ được cái hạnh tốt của MỘT CÁN BỘ PHẬT GIÁO theo giáo luật”. Hình như đây là lời nhận xét của một thầy cúng theo tinh thần” Lươn chê lịch” lúc nghịch nhau, nhưng giờ đây cả hai đều là” thanh tâm trường dâm tặc”.

Qua vụ cường hào ác bá Phật Giáo Lê Tấn Kiết, lợi dụng chiêu bài từ thiện để ép buộc một phụ nữ đáng thương, có đứa con tật nguyền, đang cần sự giúp đở, nhưng bất hạnh là lọt vào” ĐỘNG MA VƯƠNG” Chùa Chánh Giác, tài liệu rành rành, với DVD. Tuy nhiên, ông Một là người có nhiều mưu mẹo gian manh, nên tai Tây Úc có những tin đồn từ những người của ông ta, xin được thu thập và nêu lên trong tinh thần thông tin trung thực sau đây:

-Tuần Báo Việt Luận bị mất hút số 2346 tại Tây Úc, nên nhiều người không biết, đó là do bác dùng tiền để mua hết báo. Người Viết cũng từng bị ông Một hốt gần hết báo Chính Luận số tháng 11 năm 1998 khi có đăng bài về Thích Thanh Từ được chùa Chánh Giác phổ biến kinh, băng thuyết pháp trong 3 hội chợ tết. Rồi nguồn tin cho biết, nghe là trò con nít như sau:” Bác Một nhờ luật sư viết thư bảo tờ” Việt Lựn” không được bán báo, nên báo sợ mà không dám làm..”. Được biết, bất cứ chuyện gì về kiện thưa, quan tòa chưa gõ búa là chưa có hiệu lực, như vậy luật sư của Bác chắc phải là ÔNG TRỜI CON ở Úc.

-Nguồn tin đồn rỉ tai cho biết là: bác Một bị gài bẩy, vì bà Huệ cho bác uống thuốc Mê, nên không biết gì. Tuy nhiên sau khi xem cuốn DVD” con đường dâm ta đi”, thì thấy Bác là người” năng nổ” để tận hướng thú” hộ lý” một cách” tích cực” trong” CHỦ ĐỘNG” (đừng nói lái mà mất ý nghĩa). Do đó, với cái tuổi đời 89 mà lại” như tuổi đôi mươi” có thể là do bác tự uống loại THUỐC LẮC hiệu Celius hay Viagra…khi uống vào là” LẮC ĐÍT” lắc nhanh, lắc mạnh, lắc dai…..theo gương chủ địt Hồ Chí Minh dạy đĩ, sống mãi trong sự nghiệp đéo lường, Đ…bậy.

– Có người của Bác còn u mê chửi là: con đó ăn cháo đá bát, bác giúp nó mà còn hại….giống như vụ huề thượng Thích Phước Huệ, báo đăng rành rành, vậy mà tờ Văn Nghệ ( dân gọi là DÂM NGHỆ) do Nguyễn Vi Túy và Hồ Ông chủ trương và tờ Chiêu Dương (dân gọi là tờ CHIẾU GIƯỜNG” của Nhất Giang, hết lòng ngụy biện, qui chụp là” bà Diệu Đức dụ thầy vào đường TU ĐẠO” chứ thầy Phước Huệ cao dầy công đức, bị quỷ ám nên” trả quả” kiếp trước…hể cái gì làm bậy là cứ đổ thừa cho” cái quả từ kiếp trước” là hết tội.

Vụ cường hào ác bá Phật Giáo Lê Tấn Kiết ở Tây Úc là bài học mà các hội đoàn, đoàn thể nên cẩn thận. Chẳng lẽ cán Vẹm như Lê khả Phiêu, Phan Văn Khải….hay người ít học, gốc chăn trâu, đâm thuê chém mướn, cạo đầu, mặt bộ cà sa và lập chùa ở hải ngoại, thì trở thành” lãnh đạo tinh thần”? Đồng tiền cúng dường lầm cho một ngôi chùa, là gieo nghiệp báo, đồng lỏa với kẻ” mượn đạo tạo đời” mà nhóm Phật giáo” Tiệm Phật Về Nguồn” là nơi xuất phát ma quái, nhiễu nhương tại hải ngoại từ bấy lâu nay. Cho nên có một số người sau khi lầm chùa, lộn sư, chán ngán cho là: thà mang tiền cúng Casino, không có đốt nhang, mình thưởng thức thú vui” hao bạc” còn hơn là cúng chùa, nhằm chùa Việt Cộng, tay sai Về Nguồn là coi như đem tiền giúp quỷ phá nhà chay, lam hại đạo Pháp, hoen ố danh Đức Phật, là đồng lỏa với kẻ ác gian; cúng chùa loại nầy, tiền vào túi riêng của quỷ tăng, ma ni…có khi nhờ tiền nầy mà chúng đánh phá, đi chơi bời, du hý….còn cúng Casino thì tiền mình được dùng để: chi cho những người làm, tiền thuế dùng để tu sửa đường, bịnh viện….mà người thua bạc cũng hưởng. Tuy vậy, cờ bạc là bác thằng bần đấy./.

THƠ LÁI ÂM.
CƯ SĨ VÀ KỶ SƯ.
Tại tiểu bang Tây Úc, CƯ SĨ Lê Tấn Kiết, hổn danh” Bác Một”, suốt đời tỵ nạn, không làm việc, chỉ tụng kinh, đốt nhang, dùng tượng Phật để phát huy bề thế; bác không lao động mà là vinh quang, thành công hơn bất cứ kỷ sư.

CƯ SĨ không là gốc KỶ SƯ.
KỶ SƯ thua cả CƯ SĨ ừ….
KỶ SƯ thất nghiệp thành CƯ SĨ.
CƯ SĨ gặp thời, hơn KỶ SƯ.
TẠI GIA đừng tưỏng là TA DẠI.
THÁNH TIÊN tại thế THIÊN TÁNH dù.
KỶ SƯ xuất thế, thành CƯ SĨ.
THẤY ĐỜI khai thác THỜI ĐẤY Sư…

PHỤC DỤ NẠN NHÂN ÉP” PHỤ DỤC”
Tại Tây Úc, cường hào ác bá Phật Giáo Lê Tấn Kiết, lợi dụng từ thiện để ép một phụ nữ từ Việt Nam sang chửa bịnh cho con để” phục vụ sinh lý”, bị bể. Đây là hình thức nô lệ tình dục xảy ra ngay tại nước tự do mà lại tại chùa nữa.

ĐỒNG HƯƠNG từ thiện dỏm ĐƯƠNG HỒNG.
ĐỒNG HƯƠNG sách nhiễu Đít…. ĐƯỜNG HÔNG.
MẠT PHÁP chủ chùa càng MẬP PHÁT.
NGÁO BỊP dâm ô, NGHIỆP BÁO tường.
ÁO BÁC Một nầy, gây ÁC BÁO.
AI LÁT” môn-lề” ÁC LAI đương *
ĐẠI HỶ chơi xong, phao ĐĨ HẠI **
KIẾP NGẠI dâm tà, CÁI NGHIỆP vương.

Ghi chú: * Môn Lề: tức là bên lề thiền môn ( chứ không phải nói lái là MÊ L…). ** ĐẠI HỶ, pháp danh cư sĩ Lê Tấn Kiết, sau khi hành hạ phụ nữ, lại có người phao tin là” con đĩ đó hại bác”.

TRƯƠNG MINH HÒA.
Ngày 02.04.2009

http://tinparis.net/vn_index.html


hồ chí minh súc vật, nông đức mạnh súc vật, nguyễn tấn dũng súc vật, nguyễn minh triết súc vật, dcsvn súc vật, ditmecodosaovang, ditmehochiminh, ditmenongducmanh, ditmenguyentandung, ditmenguyenminhtriet, dadaocongsan, latdocongsan, tieudietcongsan, hochiminhsucvat, sucvathochiminh, sucvatnongducmanh, sucvatnguyentandung, sucvatnguyenminhtriet, dadaovietcong, iavaomathochiminh, iavaomatnongducmanh, iavaomatnguyentandung, iavaomatnguyenminhtriet, súc vật lê khả phiêu, lê khả phiêu súc vật, suc vat le kha phieu, le kha phieu suc vat , lekhaphieu, suc vat vo nguyen giap, sucvatvonguyengiap, vonguyengiapsucvat, súc vật võ nguyên giáp, võ nguyên giáp súc vật, ditmevonguyengiap, iavaomatvonguyengiap